Viêm gan B là bệnh rất nguy hiểm, nhất là đối với trẻ em. Viêm gan B ở trẻ em trên lâm sàng có nhiều đặc điểm khác với người lớn và việc điều trị viêm gan B mãn tính ở trẻ em cũng phức tạp hơn khá nhiều.

Nguyên nhân gây viêm gan B ở trẻ em

Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm, và một trong ba con đường lây truyền bệnh là từ mẹ sang con.

Theo một số nghiên cứu cho thấy, ở Việt Nam, có hơn 10% phụ nữ mang thai bị nhiễm virus viêm gan B. Đây là một tỷ lệ rất lớn, do nhiều phụ nữ chưa tầm soát bệnh trước và trong khi mang thai.

  • Nếu người mẹ bị bệnh viêm gan B ở thời kỳ đầu của thai kỳ ( 3 tháng đầu) thì có tỷ lệ mẹ truyền mầm bệnh virus cho con chỉ chiếm tỷ lệ thấp ( khoảng 1%).
  • Nếu người mẹ bị bệnh viêm gan B vào 3 tháng giữa của thai kỳ thì tỷ lệ người mẹ truyền mầm bệnh cho con lên tới 10%.
  • Đặc biệt nếu như người mẹ bị bệnh vào giai đoạn 3 tháng cuối của thai kỳ thì tỷ lệ người mẹ truyền mầm bệnh cho con lên tới 60-70%.

Khoảng 90% trẻ em bị nhiễm bệnh trong thời kỳ sơ sinh. Nguyên nhân là virus có trong máu, các chất dịch của người mẹ sẽ truyền vào cơ thể trẻ. Đặc biệt là trẻ sơ sinh với hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh, sẽ không đủ sức đề kháng để tiêu diệt virus.

25 – 50% số trẻ em bị nhiễm bệnh trong thời thơ ấu (trước 5 tuổi) sẽ phát triển thành mạn tính.

5 -10% những người bị nhiễm HBV trong độ tuổi thiếu niên hoặc tuổi trưởng thành mới dẫn đến mạn tính.

Quá trình nhiễm viêm gan B ở trẻ em

Ở trẻ sơ sinh, các biểu hiện của bệnh có thể không rõ ràng, đôi khi chỉ xuất hiện vàng da, bú kém. Các mẹ thường nghĩ rằng đó là vàng da sinh lý, hoặc không chú ý vì luôn cho trẻ ở trong phòng tối, vì vậy mà không đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời, gây ra hậu quả nặng nề như suy gan, xuất huyết não…

Trẻ em bị nhiễm viêm gan siêu vi B mạn tính trong suốt thời thơ ấu đều không có triệu chứng và biến chứng bị mắc bệnh gan nặng cũng ít khi xảy ra. Khi có điều kiện thuận lợi nào đó như nhiễm trùng nặng, sức khỏe giảm sút…, virus sẽ gây các đợt viêm gan cấp.

Tuy nhiên, khi đến tuổi trưởng thành thì những biến chứng nghiêm trọng có nguy cơ cao xảy đến bao gồm cả xơ gan và ung thư tế bào gan.

Khi nhiễm HBV mà kháng nguyên bề mặt (HbsAg) tồn tại trong máu bệnh nhân trên 6 tháng thì được coi là mạn tính, nó được đặc trưng bởi 4 giai đoạn miễn dịch của bệnh.

Giai đoạn 1: HBsAg và HbeAg được phát hiện.

  • HBV DNA > 100.000 copies /ml.
  • Men gan (ALT, AST) nằm trong giới hạn bình thường.
  • Không có dấu hiệu viêm gan và xơ gan hoặc có rất nhẹ.

Giai đoạn 2: HBsAg và HbeAg vẫn tồn tại.

  • HBV DNA > 100.000 copies/ml.
  • Men gan (ALT,AST) tăng liên tục.
  • Có thể tiến triển viêm gan và xơ gan.

Giai đoạn 3: HBsAg vẫn hiện diện.

  • HBeAg biến mất, xuất hiện anti-Hbe.
  • HBV DNA < 10.000 copies/ml hoặc không phát hiện.
  • Men gan (ALT, AST) bình thường.
  • Không có dấu hiệu viêm gan, dấu hiệu xơ gan sẽ thoái lui.

Giai đoạn 4: HBsAg vẫn hiện diện.

  • HBeAg vẫn còn âm tính và anti-Hbe vẫn dương tính.
  • HBV DNA > 10.000 copies/ml.
  • Men gan (ALT, AST) bình thường hoặc tăng.
  • Viêm gan thể tấn công có khả năng dẫn đến xơ gan.

Điều trị viêm gan B ở trẻ em

Trẻ em được xác định có nhiễm viêm gan B mãn tính yêu cầu đặt ra là phải giám sát thường xuyên đối với tiến triển của bệnh gồm: Khám lâm sàng và đánh giá các xét nghiệm huyết thanh của ALT, AFP, HBsAg, HBeAg, anti – HBe và DNA HBV.

Ngoài ra, một bảng xét nghiệm đầy đủ chức năng gan và tiểu cầu cần được kiểm tra định kỳ. Tăng tỷ lệ của AST trên ALT thường là một dấu hiệu của chứng xơ hóa đang ngày càng tăng, đặc biệt là nếu chỉ số AST trở lên lớn hơn ALT.

Khả năng một đứa trẻ bị nhiễm viêm gan B mãn tính mà AST > ALT có nguy cơ xơ gan là đáng kể và để củng cố sự đánh giá này có thể làm thêm sinh thiết gan. Tuy nhiên, AST> ALT cũng có thể được thấy thoáng qua ở trẻ em gần đây tiêu thụ rượu hoặc sau khi hoạt động thể chất mạnh mẽ, và các khả năng khác cần phải được loại trừ trước khi thực hiện một tìm kiếm các xơ hóa tiến triển do HBV. Giảm tiểu cầu có thể là một dấu hiệu sớm của lách to do tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong bệnh cảnh xơ gan.

Chỉ số men gan (ALT) trong huyết thanh tăng nói lên rằng mức độ hoại tử của tế bào gan, tức là sự tổn thương của gan. Ở người lớn, chỉ số ALT trên giới hạn bình thường cho nam giới là >30 IU/L và nữ giới là >19 IU/L. Nhưng ULN ở trẻ em vẫn chưa được thiết lập, đối với trẻ em ULN sử dụng thường thay đổi tùy theo các phòng xét nghiệm và độ tuổi của trẻ. Trong trường hợp không có tiêu chuẩn cho trẻ em thì ALT được xem xét nâng lên lớn hơn các ULN phòng xét nghiệm hoặc > 40 IU/L.

Thăm khám sức khỏe thường xuyên là cách bảo vệ sức khỏe cho bạn và con

Trẻ em với men gan ALT bình thường

Trong việc điều trị trẻ em nhiễm viêm gan B mãn tính thì việc xác định những bệnh nhân không cần điều trị cũng quan trọng như xác định những bệnh nhân cần được điều trị.

Như đã nêu ở trên, đa số các trẻ em bị nhiễm viêm gan B chu sinh vẫn còn trong giai đoạn 1 trong suốt thời thơ ấu và thường cho đến tuổi trưởng thành. Thời gian dài nhất của giai đoạn này thường thấy ở những người bị nhiễm HBV genotype C (HBV có 8 genotype từ A đến H) và tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HbeAg ở trẻ em bị nhiễm HBV genotype C là rất thấp. Những trẻ em này vẫn luôn cho HBeAg (+) với HBV DNA cao khoảng 100.000 copies/ml và có thể cao hơn nữa. Tuy nhiên, không có hoạt động đáp ứng miễn dịch gây ra bệnh và ALT duy trì ở mức bình thường. Công bố dữ liệu lâm sàng hỗ trợ điều trị trẻ em trong giai đoạn này là rất hạn chế.

Trẻ em với men gan ALT tăng cao liên tục

Mức ALT huyết thanh cao liên tục được đặc trưng ở giai đoạn 2 của bệnh.

Mức ALT huyết thanh tăng cao là một dấu hiệu cho biết sự hoại tử tổn thương tế bào gan. Cụ thể một đứa trẻ có mức ALT huyết thanh cao hơn 1,5 lần ULN phòng xét nghiệm hoặc lớn hơn 60 IU/L (tức là, 1.5 x 40 IU/L) thì những đứa trẻ này phải được tiếp tục đánh giá lượng HBV DNA và mức độ mô học của gan để xem xét việc điều trị thích hợp.

Nếu mức ALT huyết thanh thấp hơn mức nói trên thì phải theo dõi hơn 2 lần trong ít nhất 6 tháng đối với bệnh nhân HBeAg dương tính và phải theo dõi hơn 3 lần trong ít nhất 12 tháng đối với bệnh nhân có HbeAg âm tính.

Lý do để theo dõi mức ALT huyết thanh cao liên tục trong ít nhất 6 tháng ở bệnh nhân có HBeAg dương tính là để tránh điều trị một đứa trẻ trong quá trình tự phát HBeAg chuyển đổi huyết thanh và bệnh sẽ cải thiện mà không cần điều trị.

Những trường hợp đặc biệt dưới đây cần phải điều trị lâu dài

Trẻ em bị nhiễm HBV mạn tính có thể được điều trị với thuốc kháng virus (như interferon alfa, lamivudine, adefovir) tuy nhiên chỉ định dùng thuốc phải do bác sĩ chuyên khoa gan mật của nhi khoa quyết định.

  • Nhanh chóng bị suy giảm chức năng gan.
  • Xơ gan (còn bù hoặc mất bù).
  • Viêm cầu thận do nhiễm HBV.
  • Nhiễm virus viêm gan B tái phát sau ghép gan.
  • Sự hiện diện của các chủng virus (HBV/HIV, HBV/HCV, HBV/HDV).
  • Những trẻ em có tiền sử gia đình bị ung thư tế bào gan.
  • Phụ nữ mang thai có lượng virus cao (> 20.000.000 IU/ml) trong quý 3.

Phòng ngừa viêm gan B ở trẻ em

Tiêm vắc xin là cách phòng ngừa hiệu quả và đảm bảo nhất.

  • Đối với trẻ được sinh ra từ mẹ mắc viêm gan B cần được tiêm một mũi kháng thể globulin chống HBV và một mũi vắc xin viêm gan B trong vòng 12 tiếng đầu sau khi sinh. Tiếp đó, tiêm đủ mũi theo phác đồ, khi trẻ được 1 tháng tuổi tiêm mũi thứ 2, 2 tháng tuổi tiêm mũi thứ 3 và nhắc lại lúc 12 tháng tuổi.
  • Đối với trẻ khi sinh ra không có mẹ bị viêm gan B và tình trạng sức khỏe đảm bảo thì cần thực hiện tiêm viêm gan B mũi đơn ngay trong 24 giờ đầu sau sinh. Sau đó, trẻ cần tiêm bổ sung mũi tiêm viêm gan B số 2 số 3, mũi tiêm thứ 2 cách mũi tiêm đầu 1 tháng và các mũi 2, 3, 4 được tiêm cùng Vắc xin 5 trong 1.
  • Đối với những cặp vợ chồng đang có ý định sinh con nhưng cả 2 đều chưa được tiêm phòng virus viêm gan B thì làm kháng thể kháng viêm gan B, nếu chưa có kháng thể bảo vệ, và nên thực hiện tiêm sớm để người vợ được đảm bảo nhất trong quá trình mang thai.
  • Đối với phụ nữ chưa được tiêm phòng vắc xin viêm gan B mà bị mắc viêm gan B trong thai kỳ thì cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa để sớm có hướng khắc phục. Đặc biệt, trong trường hợp mẹ bầu mắc viêm gan B từ tháng thứ 3 trở đi thì cần đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt.

Khi trẻ được sinh ra, nếu nghi ngờ mắc viêm gan B cần lập tức đưa trẻ đi khám và làm xét nghiệm tại các cơ sở uy tín và chất lượng. Sau khi xét nghiệm nếu kết quả trả về trẻ bị viêm gan B sơ sinh, bố mẹ cần lắng nghe những hướng dẫn điều trị của bác sĩ để con được điều trị tốt nhất. Ngoài ra, trong quá trình điều trị bệnh, bố mẹ cần đưa con đi khám sức khỏe ít nhất 1 tháng 1 lần để nắm bắt tốt nhất về tình trạng bệnh của con.